Chuyên trang văn bản pháp luật kế toán kiểm toán
VSA 450 - Đánh giá các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Chuẩn mực kiểm toán số 450: Đánh giá các sai sót
phát hiện trong quá trình kiểm
toán
(Ban hành kèm theo Thông
tư số 214/2012/TT-BTC
ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính)
I/ QUY ĐỊNH CHUNG
Phạm vi áp dụng
01. Chuẩn mực kiểm toán này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) trong việc đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán, bao gồm cả các sai sót không được điều chỉnh (nếu có) đối với báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 quy định khi hình thành ý kiến kiểm toán đối với báo cáo tài chính, kiểm toán viên có trách nhiệm phải kết luận xem có đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu hay không. Kết luận của kiểm toán viên theo quy định tại đoạn 10 - 11 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 có xem xét đến đánh giá của kiểm toán viên về các sai sót không được điều chỉnh (nếu có) đối với báo cáo tài chính, phù hợp với Chuẩn mực này. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 đề cập đến trách nhiệm của kiểm toán viên về việc áp dụng khái niệm mức trọng yếu một cách phù hợp trong bước lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính.
02.
Kiểm toán viên và doanh nghiệp
kiểm toán phải tuân thủ các quy định của Chuẩn mực này trong quá trình thực hiện
kiểm toán báo cáo tài chính.
Đơn vị được kiểm toán (khách
hàng) phải có những hiểu biết nhất định về Chuẩn mực này để phối hợp công việc
và xử lý các mối quan hệ liên quan đến các thông tin đã được kiểm toán.
Mục tiêu
03. Mục tiêu của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán là đánh giá:
(a) Ảnh hưởng của các sai sót đã
được phát hiện đối với cuộc kiểm toán;
(b) Ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh
(nếu có) đối với báo cáo tài chính.
Giải thích thuật ngữ
04. Trong các chuẩn mực kiểm
toán Việt
(a) Sai sót: Là sự khác biệt giữa giá trị, cách phân loại, trình bày hoặc
thuyết minh của một khoản mục trên báo cáo tài chính với giá trị, cách phân loại,
trình bày hoặc thuyết minh của khoản mục đó theo khuôn khổ về lập và trình bày
báo cáo tài chính được áp dụng. Sai sót có thể phát sinh do nhầm lẫn hoặc gian
lận (xem hướng dẫn tại đoạn A1 Chuẩn mực này).
Khi kiểm
toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính đã được trình bày trung
thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay chưa, sai sót có thể bao gồm những
điều chỉnh về giá trị, cách phân loại, trình bày hoặc thuyết minh mà theo xét đoán
của kiểm toán viên là cần thiết để báo cáo tài chính được trình bày trung thực
và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
(b)
Sai sót không được điều chỉnh: Là các sai sót mà kiểm toán viên đã phát
hiện và tổng hợp lại trong quá trình kiểm toán nhưng không được điều chỉnh.
II/ NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Yêu cầu
Tổng hợp các sai sót đã được
phát hiện
05. Kiểm toán viên phải tổng hợp
tất cả các sai sót đã được phát hiện trong quá trình kiểm toán, trừ những sai
sót không đáng kể (xem hướng dẫn tại đoạn A2 - A3 Chuẩn mực này).
Xem
xét các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán
06. Kiểm toán viên phải xác định
sự cần thiết của việc sửa đổi chiến lược kiểm toán tổng thể và kế hoạch kiểm
toán nếu:
(a) Bản chất
của các sai sót đã được phát hiện và tình huống phát sinh các sai sót đó
cho thấy có thể tồn tại các sai sót khác mà khi tổng hợp lại có thể là trọng yếu
(xem hướng dẫn tại đoạn A4 Chuẩn mực này); hoặc
(b) Tổng hợp các sai sót đã được phát hiện trong
quá trình kiểm toán gần đạt tới mức trọng yếu theo quy định của Chuẩn mực kiểm
toán Việt
07. Nếu theo yêu cầu của kiểm
toán viên, Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán đã thực hiện kiểm tra lại một
nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh và đã điều chỉnh các
sai sót được phát hiện thì kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm toán bổ
sung để xác định liệu có còn sai sót khác hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A6
Chuẩn mực này).
Trao
đổi thông tin và điều chỉnh sai sót
08. Kiểm toán viên phải trao đổi
kịp thời về tất cả các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán với cấp quản
lý phù hợp trong đơn vị được kiểm toán, trừ khi pháp luật và các quy định không
cho phép (xem đoạn 07 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 260). Kiểm toán viên phải
yêu cầu Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán điều chỉnh các sai sót đã trao đổi
(xem hướng dẫn tại đoạn A7 - A9 Chuẩn mực này).
09. Nếu Ban Giám đốc đơn vị được
kiểm toán từ chối điều chỉnh một số hoặc tất cả các sai sót do kiểm toán viên
yêu cầu, kiểm toán viên phải tìm hiểu nguyên nhân của việc từ chối này và xem
xét những hiểu biết đó khi đánh giá liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện
tổng thể, có còn sai sót trọng yếu hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A10 Chuẩn
mực này).
Đánh
giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh
10. Trước khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót
không được điều chỉnh, kiểm toán viên phải xem xét lại mức trọng yếu theo Chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam số 320 để xác định liệu mức trọng yếu có phù hợp với
tình hình thực tế của đơn vị được kiểm toán hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A11 - A12 Chuẩn mực này).
11. Kiểm toán viên phải xác định liệu các sai sót
không được điều chỉnh có trọng yếu hay không khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại.
Để đạt được điều này, kiểm toán viên phải xem xét:
(a) Quy mô và bản chất của các sai sót trong mối
quan hệ với từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh và
mối quan hệ với tổng thể báo cáo tài chính cũng như các tình huống cụ thể phát
sinh sai sót (xem hướng dẫn tại đoạn A13 - A17, A19 - A20 Chuẩn mực này);
(b) Ảnh hưởng của các sai sót
không được điều chỉnh của kỳ trước đối với các nhóm giao dịch, số dư tài khoản
hoặc thông tin thuyết minh liên quan và đối với tổng thể báo cáo tài chính (xem
hướng dẫn tại đoạn A18 Chuẩn mực này).
Trao đổi
với Ban quản trị đơn vị được kiểm toán
12. Kiểm toán viên phải trao đổi với Ban quản trị đơn vị được kiểm toán về những sai sót không được điều chỉnh và ảnh hưởng của các sai sót này khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại đối với ý kiến kiểm toán, trừ khi pháp luật và các quy định không cho phép (xem đoạn 07 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 260). Khi trao đổi, kiểm toán viên phải xác định riêng từng sai sót trọng yếu không được điều chỉnh và phải yêu cầu điều chỉnh các sai sót này (xem hướng dẫn tại đoạn A21 - A23 Chuẩn mực này).
13. Kiểm toán viên phải trao đổi với Ban quản trị
đơn vị được kiểm toán về ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh của
các kỳ trước đối với các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh liên
quan và đối với tổng thể báo cáo tài chính kỳ này.
Giải trình bằng văn bản
14. Kiểm toán viên phải yêu cầu
Ban Giám đốc và Ban quản trị đơn vị được kiểm toán (trong phạm vi phù hợp) giải
trình bằng văn bản về việc Ban Giám đốc và Ban quản trị (trong phạm vi phù hợp)
cho rằng các sai sót không được điều chỉnh, khi xét riêng lẻ và tổng hợp lại là
không trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính. Bảng tổng hợp các sai sót
không được điều chỉnh phải được trình bày hoặc đính kèm trong Bản giải trình đó
(xem hướng dẫn tại đoạn A24 Chuẩn mực này).
Tài liệu,
hồ sơ kiểm toán
15. Kiểm toán viên phải thể hiện trong hồ sơ kiểm
toán các vấn đề sau (xem hướng dẫn tại đoạn A25 Chuẩn mực này và đoạn 08 - 11,
đoạn A6 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230):
(a) Mức giá trị cụ thể mà các sai
sót dưới mức này được coi là sai sót không đáng kể (xem đoạn 05 Chuẩn mực này);
(b) Tập hợp tất cả các sai sót
phát hiện trong quá trình kiểm toán và liệu những sai sót này đã được điều chỉnh
hay chưa (xem đoạn 05, 08 và 12 Chuẩn mực này);
(c) Kết luận của kiểm toán viên về
việc các sai sót không được điều chỉnh khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại có trọng
yếu hay không và cơ sở cho các kết luận của kiểm toán viên (xem đoạn 11 Chuẩn mực
này).
III/ HƯỚNG
DẪN ÁP DỤNG
Khi thực hiện Chuẩn mực này cần tham khảo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 200.
Hướng
dẫn xác định sai sót (hướng dẫn đoạn 04(a) Chuẩn mực này)
A1. Sai sót có thể phát sinh từ:
(a) Việc thu thập hoặc xử lý dữ liệu để lập báo cáo tài chính không
chính xác;
(b) Bỏ sót số liệu hoặc thuyết minh;
(c) Ước tính kế toán không đúng phát sinh do bỏ sót hoặc hiểu sai;
(d)
Xét đoán của Ban Giám đốc
liên quan đến các ước tính kế toán mà kiểm toán viên cho là không hợp lý hoặc
việc lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán mà kiểm toán viên cho là không
phù hợp.
Ví dụ về các sai sót do gian
lận được trình bày tại đoạn A1 - A6 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240.
Tổng hợp các sai sót đã được phát hiện (hướng dẫn
đoạn 05 Chuẩn mực này)
A2. Kiểm
toán viên cần chỉ ra mức giá trị cụ thể mà sai sót dưới mức đó được coi là sai
sót không đáng kể và không cần tổng hợp lại vì kiểm toán viên cho rằng tổng hợp
các sai sót đó không ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính. “Không đáng kể”
không phải là cách gọi khác của thuật ngữ “không trọng yếu”. Các vấn đề được
coi là “không đáng kể” có sự khác biệt hoàn toàn về mức độ ảnh hưởng (độ lớn)
so với tính trọng yếu quy định tại Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 và những
vấn đề đó không gây ra hậu quả đáng kể dù xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại, dù
đánh giá về quy mô, bản chất hoặc trong các tình huống cụ thể. Khi có bất kỳ sự
không chắc chắn nào về tính “không đáng kể” của một vấn đề thì vấn đề đó không
còn được coi là không đáng kể.
A3. Để hỗ
trợ kiểm toán viên đánh giá ảnh hưởng của các sai sót trong quá trình kiểm toán
và trao đổi các sai sót với Ban Giám đốc và Ban quản trị đơn vị được kiểm toán,
kiểm toán viên cần phải phân biệt rõ các sai sót thực tế, sai sót xét đoán và
sai sót dự tính:
(1) Sai sót thực tế là các sai sót đã xảy ra và được xác định một cách chắc
chắn;
(2) Sai sót xét đoán là các chênh lệch phát sinh từ việc xét đoán của Ban
Giám đốc liên quan đến các ước tính kế toán mà kiểm toán viên cho là không hợp
lý, việc lựa chọn hoặc áp dụng các chính sách kế toán mà kiểm toán viên cho rằng
không phù hợp;
(3) Sai sót dự tính là những ước tính của kiểm toán viên về các sai sót
trong tổng thể, liên quan đến việc suy rộng các sai sót phát hiện trong mẫu kiểm
toán cho toàn bộ tổng thể. Hướng dẫn về việc xác định và đánh giá các sai sót dự
tính được trình bày chi tiết tại đoạn 14 - 15 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
530.
Xem
xét các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán (hướng dẫn
đoạn 06 - 07 Chuẩn mực này)
A4. Trên
thực tế, sai sót không xảy ra một cách riêng lẻ mà một sai sót xảy ra thường dẫn
đến các sai sót khác, ví dụ khi kiểm toán viên phát hiện một sai sót phát sinh
từ sự yếu kém của kiểm soát nội bộ hoặc từ các ước tính kế toán, các phương
pháp đánh giá không phù hợp đã được đơn vị áp dụng rộng rãi.
A5. Nếu
tổng hợp các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán gần đạt mức trọng yếu
theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 thì có thể có rủi ro cao
hơn mức độ chấp nhận được, là do ảnh hưởng của các sai sót không được phát hiện
khi cộng gộp vào với các sai sót đã phát hiện và được tổng hợp trong quá trình
kiểm toán có thể vượt mức trọng yếu. Các sai sót không được phát hiện có thể tồn
tại do rủi ro lấy mẫu và rủi ro ngoài lấy mẫu (xem đoạn 05(c) - (d) Chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam số 530).
A6. Kiểm
toán viên có thể yêu cầu Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán kiểm tra các nhóm
giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh để hiểu rõ nguyên nhân của
các sai sót mà kiểm toán viên phát hiện được và thực hiện các thủ tục để xác định
giá trị của các sai sót thực tế trong các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc
thông tin thuyết minh và thực hiện các điều chỉnh cần thiết đối với báo cáo tài
chính. Ví dụ, yêu cầu như vậy được kiểm toán viên thực hiện trên cơ sở suy rộng
các sai sót đã phát hiện trong các mẫu kiểm toán được chọn ra từ tổng thể.
Trao đổi và điều chỉnh các sai sót (hướng dẫn đoạn 08 - 09 Chuẩn
mực này)
A7. Việc
trao đổi kịp thời về các sai sót với các cấp quản lý phù hợp là quan trọng vì
việc này sẽ giúp cho Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán đánh giá có tồn tại các
sai sót hay không và thông báo cho kiểm toán viên nếu Ban Giám đốc không đồng ý
với các phát hiện đó, đồng thời thực hiện các biện pháp cần thiết. Cấp quản lý
phù hợp thông thường là người chịu trách nhiệm và có thẩm quyền đánh giá các
sai sót và thực hiện các biện pháp cần thiết.
A8. Pháp
luật và các quy định có thể hạn chế việc kiểm toán viên trao đổi một số sai sót
với Ban Giám đốc hoặc những người khác trong đơn vị được kiểm toán. Ví dụ, pháp
luật có thể cấm kiểm toán viên trao đổi hoặc thực hiện các biện pháp khác gây ảnh
hưởng đến cuộc điều tra của các cơ quan chức năng về các hành vi vi phạm pháp
luật. Trong một số trường hợp, kiểm toán viên sẽ gặp mâu thuẫn phức tạp giữa
nghĩa vụ bảo mật và trách nhiệm trao đổi thông tin của kiểm toán viên thì kiểm
toán viên cần tham khảo ý kiến của chuyên gia tư vấn pháp luật.
A9. Việc
điều chỉnh tất cả các sai sót bao gồm cả các sai sót đã được kiểm toán viên
trao đổi giúp Ban Giám đốc duy trì hệ thống sổ kế toán và các ghi chép được
chính xác và giảm thiểu rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong các báo cáo tài chính
tương lai do ảnh hưởng của các sai sót không trọng yếu không được điều chỉnh của
các kỳ trước.
A10. Theo
quy định tại đoạn 12 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700, kiểm toán viên
phải đánh giá liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập
và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay
không. Việc đánh giá này bao gồm xem xét khía cạnh định tính trong công việc kế
toán của đơn vị, kể cả các dấu hiệu về sự thiên lệch trong xét đoán của Ban
Giám đốc mà có thể ảnh hưởng bởi hiểu biết của kiểm toán viên về lý do mà Ban
Giám đốc không thực hiện điều chỉnh sai sót.
Đánh
giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh (hướng dẫn
đoạn 10 - 11 Chuẩn mực này)
A11. Việc
kiểm toán viên xác định mức trọng yếu theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320
thường dựa trên ước tính về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp do kết quả thực
tế thường chưa có. Do đó, trước khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được
điều chỉnh, kiểm toán viên cần điều chỉnh lại mức trọng yếu theo Chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 320 dựa trên kết quả kinh doanh thực tế.
A12. Đoạn
12 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 quy định trong quá trình kiểm toán, mức
trọng yếu cho tổng thể báo cáo tài chính (hoặc mức trọng yếu cho nhóm giao dịch,
số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh, nếu có) được điều chỉnh lại khi kiểm
toán viên thu thập được thông tin cần thiết dẫn đến cần phải điều chỉnh lại mức
trọng yếu trước đó. Do đó, kiểm toán viên cần điều chỉnh lại mức trọng yếu trước
khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh. Trong trường hợp
phải xác định lại mức trọng yếu theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
số 320 (xem đoạn 10 Chuẩn mực này) và mức trọng yếu xác định lại thấp hơn so với
mức trọng yếu trước đó, kiểm toán viên cần xem xét lại mức trọng yếu thực hiện
và sự phù hợp về nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục kiểm toán tiếp theo
nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở cho ý kiến kiểm
toán.
A13. Ảnh
hưởng của từng sai sót riêng lẻ cần được đánh giá trong mối quan hệ với các
nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết minh liên quan và xem xét
các sai sót có vượt quá mức trọng yếu áp dụng cho các nhóm giao dịch, số dư tài
khoản hoặc thông tin thuyết minh đó hay không.
A14. Nếu một
sai sót riêng lẻ được đánh giá là trọng yếu thì không được bù trừ với các sai
sót khác. Ví dụ, nếu doanh thu bị phản ánh cao hơn doanh thu thực tế và sai sót
này vượt quá mức trọng yếu thì báo cáo tài chính bị coi là có sai sót trọng yếu
ngay cả khi ảnh hưởng của sai sót của khoản mục doanh thu được bù trừ bởi sai
sót do ghi tăng chi phí tương ứng và không làm sai sót về lợi nhuận. Việc bù trừ
các sai sót trong cùng một tài khoản hoặc loại giao dịch có thể là hợp lý, tuy
nhiên cần phải xem xét rủi ro về các sai sót không được phát hiện trước khi kết
luận rằng các sai sót sau khi được bù trừ có trọng yếu hay không. Việc phát hiện
một số các sai sót không trọng yếu trong cùng một số dư tài khoản hay cùng một
nhóm giao dịch có thể dẫn đến yêu cầu kiểm toán viên phải đánh giá lại rủi ro
có sai sót trọng yếu đối với số dư tài khoản hoặc nhóm giao dịch đó.
A15. Việc
xác định sai sót do phân loại các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính có trọng yếu
hay không liên quan đến việc đánh giá định tính, ví dụ: ảnh hưởng của sai sót về
phân loại các khoản nợ hoặc các điều khoản hợp đồng, ảnh hưởng đối với các tài
khoản riêng lẻ hoặc nhóm tài khoản hoặc ảnh hưởng đối với các hệ số cơ bản.
Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể kết luận rằng sai sót do phân loại
là không trọng yếu đối với toàn bộ báo cáo tài chính, mặc dù sai sót đó có thể
vượt quá mức trọng yếu áp dụng để đánh giá các sai sót khác. Ví dụ, việc phân
loại sai sót giữa các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán có thể không được
đánh giá là trọng yếu đối với báo cáo tài chính khi sai sót do phân loại được
đánh giá là nhỏ hơn so với tổng thể các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán và
sai sót đó không ảnh hưởng đến Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hoặc các hệ
số cơ bản khác.
A16. Trong
một số trường hợp, các sai sót, khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại, vẫn được
coi là trọng yếu mặc dù giá trị của các sai sót này có thể thấp hơn mức trọng yếu
áp dụng cho tổng thể báo cáo tài chính, bao gồm mức độ mà sai sót:
(1)
Ảnh hưởng đến việc tuân thủ
pháp luật;
(2)
Ảnh hưởng đến việc tuân thủ
điều khoản khế ước nợ hoặc các yêu cầu khác của hợp đồng;
(3)
Liên quan đến việc lựa chọn
và áp dụng không chính xác các chính sách kế toán mặc dù việc này ảnh hưởng
không trọng yếu đến báo cáo tài chính kỳ hiện tại nhưng có thể ảnh hưởng trọng
yếu đến báo cáo tài chính trong tương lai;
(4)
Che giấu những thay đổi về
thu nhập hoặc các xu hướng khác, đặc biệt trong điều kiện kinh tế chung hoặc của
ngành;
(5)
Ảnh hưởng đến các hệ số, tỷ
suất phản ánh tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ của
đơn vị;
(6)
Ảnh hưởng đến thông tin
trình bày trong báo cáo tài chính bộ phận (ví dụ, ảnh hưởng trọng yếu tới một bộ
phận kinh doanh vốn được xem là có ảnh
hưởng quan trọng đến kết quả kinh doanh hoặc lợi nhuận của đơn vị);
(7)
Ảnh hưởng làm tăng thu nhập của
Ban Giám đốc đơn vị, ví dụ giúp đạt các yêu cầu liên quan đến thưởng và các
phúc lợi khác cho Ban Giám đốc;
(8)
Là đáng kể liên quan đến hiểu
biết của kiểm toán viên về thông tin được chuyển tải tới người sử dụng báo cáo
tài chính, ví dụ, liên quan đến việc dự đoán thu nhập;
(9)
Ảnh hưởng đến các khoản mục
bên liên quan đến những đối tượng nhất định (ví dụ, liệu các đối tượng bên
ngoài đơn vị tham gia các giao dịch
có liên quan đến các thành viên Ban Giám đốc của đơn vị hay không);
(10)Trình bày thiếu các thông tin mặc dù không phải yêu cầu bắt buộc theo
quy định trong khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính nhưng theo đánh
giá của kiểm toán viên các thông tin này là quan trọng đối với hiểu biết của
người sử dụng báo cáo tài chính về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh hoặc
lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp; hoặc
(11)Ảnh hưởng đến các thông tin khác trình bày trong tài liệu có báo cáo tài
chính đã được kiểm toán (ví dụ các thông tin trong phần đánh giá hoạt động kinh
doanh trong báo cáo thường niên của công ty cổ phần niêm yết) có thể ảnh hưởng
đến quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 720 đề cập đến việc xem xét của kiểm toán viên đối với các thông tin
khác trong tài liệu có báo cáo tài chính đã được kiểm toán mà kiểm toán viên
không có trách nhiệm báo cáo.
Những
tình huống nêu trên chỉ là ví dụ, không phải là bảng liệt kê tất cả các sai sót
cho một cuộc kiểm toán. Đồng thời, sự tồn tại của bất kỳ tình huống nào trong số
các tình huống đã nêu cũng không thể đưa ngay đến kết luận sai sót đó là trọng
yếu.
A17. Đoạn 35 Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 240 yêu cầu kiểm toán viên phải xem xét ảnh hưởng của một sai sót do hoặc
có thể do gian lận đến các khía cạnh khác của cuộc kiểm toán ngay cả trong trường
hợp mức độ sai sót này là không trọng yếu đối với báo cáo tài chính.
A18. Tổng hợp các sai sót không trọng yếu và không được điều chỉnh kỳ trước
có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính kỳ hiện tại. Kiểm toán viên có
thể có các cách tiếp cận khác nhau để đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa
được điều chỉnh trong kỳ trước đối với báo cáo tài chính kỳ hiện tại. Tuy
nhiên, việc kiểm toán viên áp dụng cùng một phương pháp để đánh giá sai sót
phát hiện sẽ tạo được sự nhất quán qua các kỳ đối với một khách hàng.
Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực
công
A19. Đối với
các đơn vị trong lĩnh vực công, việc đánh giá sai sót có trọng yếu hay không
còn bị ảnh hưởng bởi trách nhiệm của kiểm toán viên (do pháp luật và các quy định
có liên quan yêu cầu) trong việc thông báo các vấn đề đặc biệt với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, ví dụ sai sót do gian lận.
A20. Ngoài
ra, các vấn đề như lợi ích công chúng, trách nhiệm, tính liêm khiết, sự giám
sát pháp lý…có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá của kiểm toán viên về mức độ trọng
yếu của các sai sót, đặc biệt là các sai sót liên quan đến việc tuân thủ pháp
luật và các quy định.
Trao đổi với Ban quan trị đơn vị được kiểm toán (hướng dẫn đoạn 12 Chuẩn mực này)
A21. Nếu
kiểm toán viên đã trao đổi về các sai sót không được điều chỉnh với các thành
viên Ban Giám đốc đồng thời là thành viên Ban quản trị đơn vị được kiểm toán,
thì kiểm toán viên không cần phải trao đổi lại với chính những cá nhân đó trên
cương vị là thành viên Ban quản trị. Tuy nhiên, kiểm
toán viên cần chắc chắn rằng các nội
dung trao đổi với Ban Giám đốc đã được thông báo đầy đủ tới các thành viên Ban quản trị đơn vị (xem đoạn 13 Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 260).
A22. Nếu
có nhiều sai sót riêng lẻ không trọng yếu, kiểm toán viên cần thông báo với Ban
quản trị số lượng các sai sót và tổng hợp ảnh hưởng của những sai sót không được
điều chỉnh, thay vì thông báo các sai sót một cách riêng lẻ.
A23. Theo
đoạn 16(c)(ii) Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 260, kiểm toán viên phải trao đổi
với Ban quản trị đơn vị được kiểm toán về những nội dung mà kiểm toán viên yêu
cầu giải trình bằng văn bản (xem đoạn 14 Chuẩn mực này). Kiểm toán viên cần thảo
luận với Ban quản trị về nguyên nhân và ảnh hưởng của việc không điều chỉnh các
sai sót có cân nhắc đến quy mô, nội dung của các sai sót trong từng điều kiện cụ
thể và những ảnh hưởng có thể có của các sai sót này đến báo cáo tài chính
trong tương lai của đơn vị.
Giải trình bằng văn bản (hướng dẫn đoạn 14
Chuẩn mực này)
A24. Quy định về lập và trình bày báo cáo tài chính yêu cầu Ban Giám đốc
và Ban quản trị (trong phạm vi phù hợp) phải điều chỉnh báo cáo tài chính khi
có các sai sót trọng yếu, do đó kiểm toán viên phải yêu cầu Ban Giám đốc và Ban
quản trị đơn vị được kiểm toán lập bản giải trình về các sai sót không điều chỉnh.
Trong một số trường hợp, Ban Giám đốc và Ban quản trị (trong phạm vi phù hợp)
có thể không đồng ý với kiểm toán viên về các sai sót được phát hiện trong quá
trình kiểm toán. Trường hợp này, Ban Giám đốc hoặc Ban quản trị đơn vị được kiểm
toán có thể đưa ra ý kiến trong bản giải trình về vấn đề này, ví dụ: “Chúng tôi
không đồng ý rằng các khoản mục...và...là sai sót vì...(mô tả lý do)”. Việc thu
thập bản giải trình của Ban Giám đốc và Ban quản trị không làm giảm trách nhiệm
của kiểm toán viên liên quan đến việc đánh giá sai sót không được điều chỉnh.
Tài liệu, hồ sơ kiểm toán (hướng dẫn
đoạn 15 Chuẩn mực này)
A25. Kiểm
toán viên cần lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán những tài liệu về các sai sót không
được điều chỉnh, gồm:
(a) Đánh giá ảnh hưởng tổng thể của các sai sót không được điều chỉnh;
(b) Đánh giá các sai sót không được điều chỉnh này có vượt mức trọng
yếu được xác định cho các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thông tin thuyết
minh hay không;
(c) Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh đối với
các chỉ số quan trọng, xu hướng, tính tuân thủ pháp luật hoặc các quy định có
liên quan và các yêu cầu của hợp đồng (ví dụ, điều khoản của hợp đồng vay)./.
*****